MACVSOG (Millitary Assistance Command, Vietnam - Studies and Observation Group - Nhóm nghiên cứu và quan sát thuộc Bộ chỉ huy trợ giúp quân sự Mỹ ở Việt Nam) là một đơn vị bán quân sự bí mật của quân đội Hoa Kỳ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Nằm trong kế hoạch 34A (OPLAN 34A), một chương trình tham vọng của Lầu Năm Góc gồm các hoạt động bán quân sự nhằm quấy nhiễu, trừng phạt và cuối cùng là lật đổ chính phủ Hà Nội, SOG đã thực hiện một loạt các hoạt động ngầm chống phá Bắc Việt Nam trong suốt giai đoạn 1964-1972. 4 nhiệm vụ cơ bản của SOG là: cài cắm gián điệp và biệt kích xuống Bắc Việt Nam; tiến hành chiến tranh tâm lý; tiến hành các hoạt động ngăn chặn và quấy rối trên biển; và hoạt động thám báo chống phá đường mòn Hồ Chí Minh.
Mục lục
* 1 Hoàn cảnh ra đời
* 2 Tổ chức, Lãnh đạo & Giám sát
o 2.1 Tổ chức
o 2.2 Lãnh đạo
o 2.3 Giám sát
* 3 Các giai đoạn hoạt động
o 3.1 Giai đoạn 1964-1968
+ 3.1.1 Bộ phận gián điệp-biệt kích OP34
+ 3.1.2 Bộ phận hoạt động trên biển OP37
+ 3.1.3 Bộ phận tâm lý chiến OP39
+ 3.1.4 Bộ phận biệt kích & thám báo OP35
o 3.2 Giai đoạn 1968-1972
* 4 Các sĩ quan từng phục vụ SOG
Hoàn cảnh ra đời
SOG ra đời trong hoàn cảnh Tổng thống Kennedy kêu gọi quân đội ngoài việc chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh tổng lực với Liên Xô còn phải sẵn sàng khi ứng phó với dạng xung đột nhỏ – chiến tranh không quy ước - như tại Việt Nam. Dù Lầu Năm Góc cho rằng quân đội có đủ sức đối phó với chiến tranh không quy ước bằng các lực lượng thông thường, Kennedy vẫn không thỏa mãn và yêu cầu quân đội lập ra một lực lượng đặc biệt thực hiện các hoạt động ngầm, khiến cho Hà Nội phát điên giống như cái cách mà họ đang tiến hành tại Nam Việt Nam với người Mỹ. Giới quân sự phản đối, nhưng dưới sức ép của Nhà Trắng, SOG được thành lập. Tuy nhiên, sự không công nhận của quân đội đối với SOG đã khiến cho rất nhiều hoạt động của SOG bị hạn chế và đem lại thành công ít ỏi.
SOG thành lập ngày 24-1-1964 tại Sài Gòn bởi Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV). Vào thời điểm mới thành lập, mọi nguồn lực, hoạt động, tổ chức của SOG đều bắt đầu từ con số không. Mặc dù được Nhà Trắng ủng hộ, SOG hầu như không nhận được sự hỗ trợ từ các lực lượng quân sự thông thường của Hoa Kỳ tại Việt Nam cũng như CIA. Phải mất 1 năm sau, các bộ phận của SOG mới được hoàn chỉnh tương đối, kết cấu thành một mạng lưới phức tạp và cồng kềnh.
Tổ chức, Lãnh đạo & Giám sát
Tổ chức
Tổ chức của SOG gồm hạt nhân là bốn bộ phận nghiệp vụ chính: Bộ phận cài cắm & chỉ đạo các hoạt động gián điệp OP34 mật danh Timberwork; Bộ phận hoạt động bán quân sự trên biển OP37 mật danh Plowman; Bộ phận hoạt động tâm lý chiến OP39 mật danh Hulidor; Bộ phận hoạt động thám báo chống phá đường mòn Hồ Chí Minh OP35 mật danh Shinning Brass. Ngoài ra, SOG còn có một số bộ phận hỗ trợ như: Bộ phận bay phối thuộc OP36, bộ phận hành chính & nhân sự OP10, bộ phận hậu cần OP40, bộ phận thông tin OP60, bộ phận tài vụ OP90 … SOG cùng đối tác Tổng nha kỹ thuật chiến lược Nam Việt Nam STD quản lý trại huấn luyện Long Thành.
Trong hoạt động thám báo trên đường mòn Hồ Chí Minh, SOG còn lập ra một số căn cứ hoạt động tiền tiêu (FOB) nằm rải rác trên lãnh thổ Nam Việt Nam để kiểm soát và hỗ trợ các toán biệt kích. Căn cứ quan trọng nhất của SOG là căn cứ hoạt động tiền tiêu Khâm Đức (Khe Sanh), nơi phụ trách gần một nửa các hoạt động biệt kích tại Lào. Ngoài ra, SOG còn có các cơ sở điều phối không lưu trong hoạt động đánh phá đường mòn, như ba Trung tâm chỉ huy phía Bắc CCN, phía Trung CCC và phía Nam CCS.
Lãnh đạo
Cấp tư lệnh chỉ huy của SOG luôn là một đại tá bộ binh Mỹ. Việc tư lệnh SOG không phải là một vị trí cấp tướng phản ánh đúng thái độ của giới quân sự tại Lầu Năm Góc: SOG không được coi là một bộ phận cấu thành chiến lược trong bộ máy chiến tranh của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Quân đội coi SOG là đứa con ghẻ do Nhà Trắng muốn họ lập ra. Tư lệnh SOG hầu như không có quan hệ rộng rãi tại Washington, và không được coi trọng tại Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Hoa Kỳ MACV và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Điều này về sau sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động của SOG và là một yếu tố quyết định sự thành bại của tổ chức này.
Phó tư lệnh của SOG luôn là một sĩ quan không quân, nhưng không phải là người đang ở vị thế được thăng tiến – rất khó được lên cấp tướng. Cấp chỉ huy thứ ba tại SOG là một quan chức của CIA. Tuy nhiên, CIA chẳng mấy mặn mà với vai trò phụ giúp cho quân đội trong hoạt động ngầm. Vì vậy, viên phó CIA được cử sang SOG thường chủ yếu hoạt động tâm lý chiến – một lĩnh vực thường không được đề cao tại CIA.
Giám sát
Sự nhạy cảm trong các hoạt động mà SOG tiến hành mang lại khiến cho các nhà địa chính trị ở Washington lo ngại. Mặc dù hào hứng với kế hoạch nhằm gây rối chính phủ miền Bắc, các nhà hoạch định chính sách ở Nhà Trắng lại lo lắng rằng nếu các hoạt động của SOG bị lộ, Hoa Kỳ sẽ bị biến thành hình ảnh kẻ xâm lược khát máu đang cố lật đổ Bắc Việt Nam, điều mà họ luôn tuyên bố rằng không phải. Hơn nữa, sự thành công - nếu có - của SOG, sẽ gây ra tình hình bất ổn dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ Hà Nội và khi đó, Trung Quốc có thể sẽ can thiệp. Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao không muốn có một Triều Tiên thứ hai. Do vậy họ quyết tâm kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của SOG, hạn chế bất cứ hành động nào có thể làm tổn hại đến hình ảnh và thanh danh của Hoa Kỳ. Tất cả các kế hoạch hoạt động của SOG đều phải trải qua một khâu kiểm duyệt công phu, gửi lên cả Nhà Trắng, Lầu Năm Góc, CIA và Bộ Ngoại giao trước khi có thể tiến hành. Và ở bất kỳ chỗ nào, kế hoạch đều có thể bị bác bỏ và trả lại, buộc SOG phải lập một kế hoạch mới. Sự cồng kềnh phức tạp này khiến cho rất nhiều các kế hoạch có triển vọng của SOG bị Washington bác bỏ, vì cho rằng “có khả năng gây tổn hại đến chiến lược chung” – chiến lược mà quân đội không coi SOG là một phần của nó. Ngoài ra, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân còn lập ra Văn phòng trợ lý đặc biệt về chống bạo loạn và hoạt động đặc biệt SACSA, với chức năng kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của SOG. Sĩ quan SACSA là người trực tiếp mang các bản kế hoạch của SOG qua các khâu kiểm duyệt tại Washington (Tuy nhiên, điều khôi hài là về sau này, SACSA lại đóng vai trò hỗ trợ cho SOG tại Washington, mặc dù mục đích ban đầu nó được lập ra để làm chậm lại chứ không phải ủng hộ cho sự phát triển của SOG).
Các giai đoạn hoạt động
Đối với từng bộ phận nghiệp vụ của SOG có một quá trình hoạt động khác nhau. Nếu như ba bộ phận cài cắm gián điệp OP34, hoạt động trên biển OP37 và hoạt động tâm lý chiến OP39 đều bắt đầu hoạt động từ năm 1964 khi SOG mới thành lập, và kết thúc vào năm 1968, khi Tổng thống Johnson ra lệnh ngừng toàn bộ chương trình hoạt động ngầm chống miền Bắc. Thì riêng bộ phận biệt kích & thám báo đường mòn Hồ Chí Minh OP35 đến năm 1965 mới chính thức hoạt động và kéo dài đến năm 1972, khi Hoa Kỳ rút khỏi chiến tranh.
Giai đoạn 1964-1968
Đây là giai đoạn mở đầu cho quá trình thành lập SOG, cũng là giai đoạn khó khăn nhất. Như đã nói ở phần trên, SOG không nhận được sự hỗ trợ tích cực của quân đội, nên buộc phải tự tìm kiếm nhân lực phục vụ cho mình. Ngay cả vậy, trong thành phần quân đội Hoa Kỳ lúc bấy giờ, không có nhiều nhân viên được huấn luyện về hoạt động đặc biệt cho các hoạt động của SOG. Sự khó khăn về nhân sự đã buộc SOG phải kiêm vai trò huấn luyện các sĩ quan trẻ nhiệt huyết nhưng thiếu kinh nghiệm, giúp họ làm quen với các hoạt động của mình. Tuy nhiên, thời hạn công tác ở SOG là một năm, giống như các lực lượng khác ở Việt Nam. Điều đó gây khó khăn cho SOG, bởi mỗi nhân viên mới thường cần một năm để quen công tác. Do vậy thay vì hưởng lợi từ những sĩ quan mà mình đã đào tạo, SOG lại phải tiếp tục đào tạo một người mới.
Bộ phận gián điệp-biệt kích OP34
Trong 4 năm hoạt động, SOG đã tung vào miền Bắc gần 30 toán gián điệp-biệt kích, tổng cộng khoảng 250 người. Nếu kể cả số gián điệp đã được tung đi từ chương trình biệt kích của CIA mà SOG tiếp nhận, thì tổng số khoảng 500 người đã xâm nhập miền Bắc. Trong đó, chỉ có bốn toán gián điệp Eagle, Romeo, Hadley và Red Dragon của SOG và ba toán Tourbillon, Easy, Remus và một điệp viên đơn tuyến Ares của CIA được cho là vẫn còn hoạt động. Tuy nhiên, cách “thả tù mù” này, theo như cách gọi của các nhân viên OP34, tỏ ra không hiệu quả. Vào cuối năm 1967, chỉ huy OP34 Bob Kingston quyết định đánh giá lại toàn bộ chương trình hoạt động gián điệp-biệt kích của SOG với sự giúp đỡ của các chuyên gia CIA và DIA. Kết quả là một thảm họa: tất cả các toán mà SOG cho là còn hoạt động đều đã bị Hà Nội vô hiệu hóa từ lâu, và một số còn được sử dụng để chống lại SOG. Trên thực tế, 500 người đã được tung đi mà không một ai còn quay về.
Chương trình đánh lạc hướng (mật danh Forae): Mặc dù chương trình gián điệp-biệt kích đã sụp đổ sau khi trung tá Kingston quyết định ngưng mọi hoạt động, song các nhân viên của SOG nhận thấy chính phủ Hà Nội vẫn lo ngại về tình trạng gián điệp xâm nhập miền Bắc, và số gián điệp bị bắt giữ mà Hà Nội công bố lớn hơn con số điệp viên mà SOG đã tung đi. Điều đó khiến cho lãnh đạo SOG thích thú, và Kingston đã dựng nên một kế hoạch đánh lừa nhằm dựng nên một hệ thống hai mang chống lại Hà Nội. Dự án này gồm ba đề án chính làm cốt lõi: Borden, Urgency và Oodles, với nội dung cơ bản là dùng sự lo ngại của Hà Nội về hệ thống an ninh ở miền Bắc để gây rối loạn cho chính họ. Với một loạt các hoạt động nhỏ và bí mật, dự án Forae hy vọng sẽ làm Hà Nội phải giảm bớt nguồn lực để tăng cường an ninh cho miền Bắc, trong khi đáng nhẽ những nguồn lực này được tăng cường cho chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, tất cả kết thúc khi Tổng thống Hoa Kỳ Johnson ra lệnh ngừng các hoạt động chống miền Bắc vào năm 1968.
[sửa] Bộ phận hoạt động trên biển OP37
Bộ phận cố vấn Hải quân phối thuộc (NAD) OP37, được thành lập tại Đà Nẵng năm 1964, với sự ủng hộ của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ. Bộ phận này thực hiện các hoạt động ngầm trên biển, đánh phá các cảng biển miền Bắc, quấy rối đường đi lại trên biển, phục kích và bắt giữ các tàu của Bắc Việt Nam và rải các tài liệu tâm lý chiến như truyền đơn… Hoạt động ngầm trên biển được Lầu Năm Góc cho rằng sẽ tạo ra hiệu quả lập tức tới Hà Nội, khiến chính phủ miền Bắc bị tổn thất và cuối cùng dẫn đến ngưng chiến tranh ở miền Nam. Dù được kỳ vọng như vậy, nhưng cuối cùng, hoạt động ngầm trên biển cũng như các bộ phận khác của SOG, do bị quá nhiều hạn chế, đã không thành công trong việc hoàn thành mục đích của mình.
OP37 sở hữu một số tàu tuần tiễu nhanh PTF gồm loại Nasty của Nauy và Swift của Hải quân để thực hiện nhiệm vụ. Đối tác của OP37 là Tổng nha kỹ thuật chiến lược STD và cơ quan an ninh bờ biển CSS của Cộng Hòa Việt Nam. Các điệp vụ do các tàu của SOG thực hiện có hiệu quả ít ỏi và chỉ gây khó chịu qua loa cho chính phủ Hà Nội. Mặc dù các hoạt động này đã khiến chính phủ miền Bắc phải tăng cường nguồn lực bảo vệ bờ biển, song xét cuối cùng, thành công là không đánh kể. Hầu hết các tàu Bắc Việt Nam mà PTF đã phá hủy là tàu đánh cá của ngư dân, rất ít trong số đó là tàu vũ trang. Các hoạt động pháo kích, tập kích ven bờ cũng khó khăn khi miền Bắc triển khai pháo bảo vệ bờ biển. Hoạt động của OP37 do đó tiếp tục bị thu hẹp dần. Cuối cùng, ngày 1-11-1968, do chính sách của Tổng thống Johnson, toàn bộ các hoạt động trên vĩ tuyến 17 đều bị ngưng lại, và OP37 ngừng hoạt động.
[sửa] Bộ phận tâm lý chiến OP39
Bộ phận chiến tranh tâm lý OP39 của SOG được thành lập năm 1964, với mục đích là nhằm cho Hà Nội tin rằng họ có vấn đề về an ninh nội bộ, từ đó giảm dần nguồn lực bổ sung cho chiến trường miền Nam và cuối cùng là kết thúc chiến tranh. Để thực hiện mục tiêu này, OP39 đã có một loạt các hoạt động: lập ra phong trào chống đối giả tạo Gươm Thiêng Ái Quốc (SSPL), lập đài phát thanh tuyên truyền, rải truyền đơn và gói quà ra miền Bắc… nhằm thu phục dân chúng miền Bắc. Tuy vậy, giới chức Washington e ngại rằng nếu như quá mức, chính phủ Hà Nội có thể sụp đổ và Trung Quốc sẽ can thiệp. Sự ám ảnh đó đã khiến Washington cấm SOG hình thành một phong trào chống đối “thực sự” tại miền Bắc với mục tiêu lật đổ Hà Nội. Khôi hài là đây lại là mục tiêu chính mà các chỉ huy của SOG hướng tới cho chương trình tâm lý chiến. Khi hoạt động nghiêm túc nhất đã bị cấm, mọi hoạt động khác của OP39 đều không mang lại hiệu quả to lớn. Điều này không được thay đổi trong những năm tiếp theo, mặc dù các sếp của SOG đã cố gắng khai thông tại Washington dọn đường cho mục tiêu lớn nhất của họ. Cuối cùng, cũng với OP34 và OP37, bộ phận tâm lý chiến OP39 đã chấm dứt hoạt động cuối năm 1968 theo lệnh của Tổng thống Johnson
[sửa] Bộ phận biệt kích & thám báo OP35
Đây là bộ phận lớn nhất của SOG, cũng là bộ phận thành công nhất trong các hoạt động ngầm chống lại miền Bắc. OP35 tập trung vào việc tung các toán thám báo-biệt kích chống phá đường mòn Hồ Chí Minh, con đường vận tải huyết mạch của miền Bắc cho cuộc chiến tại miền Nam. Địa bàn hoạt động của OP35 lấn cả sang Lào, và đến năm 1967 mở rộng sang Campuchia. Các toán thám báo của OP35 có nhiệm vụ quan sát và phát hiện ra vị trí đóng quân của các đơn vị bộ đội Quân đội nhân dân Việt Nam, các kho hàng lương thực, xăng dầu… tập trung trên đường mòn Hồ Chí Minh, rồi chỉ điểm cho máy bay đến ném bom. Đây là hoạt động hết sức nguy hiểm và táo bạo. Mỗi toán thám báo thường gồm 3 nhân viên người Mỹ và 9 lính người dân tộc. Độ nhạy cảm cao do lo sợ việc lính Mỹ bị bắt khiến Washington mà điển hình là Bộ Ngoại giao, ngăn cấm việc SOG cho phép OP35 vào Lào trong suốt năm 1964. CIA cũng không muốn SOG vào Lào, bởi họ coi Lào là địa bàn hoạt động của riêng họ. Bước sang năm 1965, sự đấu tranh của SOG tại Washington, cộng với sự ủng hộ hiếm hoi của Lầu Năm Góc đã khiến Bộ Ngoại giao và CIA mất dần thế thượng phong trong việc cấm đoán SOG. Sở dĩ giới quân sự ủng hộ SOG vì quân đội rất cần các hoạt động thám báo như vậy trên đường mòn Hồ Chí Minh để giúp họ có được bức tranh tổng thể về chiến lược chiến tranh của miền Bắc tại Nam Việt Nam. Mặc dù nhượng bộ cho SOG được phép tung các toán thám báo vào Lào, Bộ Ngoại giao vẫn đặt ra một loạt các quy định khắt khe về giới hạn xâm nhập của các toán thám báo của SOG, và mọi kế hoạch của OP35 đều phải được báo trước cho Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Viên Chăn trước khi thực hiện. Bất chấp các hạn chế như vậy, OP35 có được sự thành công ban đầu. Trong những năm 1965-1967, các toán thám báo xâm nhập đường mòn đã phát hiện ra rất nhiều mục tiêu của QĐNDVN tại Lào và chỉ điểm cho máy bay đến ném bom, khiến cho Hà Nội bị bất ngờ và thiệt hại. Với trung bình 90 điệp vụ trong mỗi tháng, OP35 tỏ ra thực sự hiệu quả và được sự ủng hộ rất lớn của MACV và Bộ tư lệnh Thái Bình Dương. Năm 1967, hoạt động thám báo của SOG được mở rộng sang Campuchia, xâm nhập và phát hiện các mục tiêu của Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam.
[sửa] Giai đoạn 1968-1972
Đây là giai đoạn mà SOG chỉ còn bộ phận nghiệp vụ thám báo và biệt kích OP35 là còn hoạt động. Các điệp vụ thám báo tiếp tục được mở rộng trên khắp đường mòn Hồ Chí Minh, gây khó khăn cho QĐNDVN và buộc miền Bắc phải cử lại một số lượng lớn bộ đội ở lại bảo vệ đường mòn. Dù đã có những thành công ban đầu, song dần dần, với việc Hà Nội bắt đầu tìm hiểu và nắm bắt được các quy luật hoạt động của OP35, thì các toán thám báo trở nên khó khăn hơn trong việc xâm nhập vào đường mòn. Một loạt các biện pháp an ninh cấp thấp nhưng rất hiệu quả của QĐNDVN đã được triển khai nhằm chống lại các toán thám báo xâm nhập, tạo nên một hệ thống an ninh tầng lớp dày đặc. Trong những năm 1968-1969, hầu hết các toán thám báo đều chỉ xâm nhập được trong một thời gian ngắn, sau đó phải rút ra khi bị tấn công. Một số toán bị tấn công mãnh liệt và thương vong nặng nề. Lúc này, QĐNDVN đã triển khai một lực lượng chuyên tìm diệt các toán thám báo của SOG, gọi là lực lượng đặc công. Các toán thám báo SOG gặp phải lực lượng này thường bị tiêu diệt không thương xót. Tỉ lệ thương vong của OP35 tăng lên theo thời gian. Năm 1969 tỉ lệ này đối với thám báo viên người Mỹ là 50% cho một điệp vụ, và tăng dần trong các năm tiếp theo. Đến năm 1970, khi Tổng thống Nixon bắt đầu rút dần lính Mỹ ra khỏi Việt Nam, lực lượng của SOG hầu như không bị ảnh hưởng. Các hoạt động thám báo tiếp tục nhộn nhịp, và SOG cung cấp cho MACV những chứng cứ có giá trị về việc miền Bắc mở rộng vùng ngã ba biên giới thành con đường vận tải chuyển quân và thiết bị vào chiến trường miền Nam. Trong bối cảnh lính Mỹ rút dần khỏi chiến tranh, đây những tin tức rất có giá trị với quân đội. Tuy nhiên, cũng với đó là cái giá phải trả rất lớn: nhiều thám báo viên Mỹ đã thiệt mạng trong các cuộc giao tranh với bộ đội miền Bắc. Các toán thám báo tuy nhận được sự hỗ trợ về không quân rất lớn nhưng vẫn bị tấn công và tổn thất. Những tháng cuối cùng của năm 1971, SOG tiếp tục chiến đấu “khi những người Mỹ khác đã về nhà”. Tuy nhiên, sau chiến dịch Lam Sơn 719, địa bàn hoạt động của SOG bị mất khá nhiều khi Quân đội nhân dân Việt Nam tấn công miền Bắc của Nam Việt Nam. Cuối cùng, cũng với việc quân đội Hoa Kỳ rút hoàn toàn ra khỏi chiến tranh Việt Nam, SOG chính thức chấm dứt hoạt động. SOG giải thể ngày 30-4-1972 theo lệnh của Bộ tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ
Các sĩ quan từng phục vụ SOG
* Tư lệnh:
o Đại tá Clyde Russell
o Đại tá Don Blackburn
o Đại tá Jack Singlaub
o Đại tá Steve Cavanaugh
o Đại tá Jack Isler
o Đại tá Skip Sadler
* Phó tư lệnh:
o Trung tá Edward Partain
* Các bộ phận nghiệp vụ của SOG
* OP34
o Chỉ huy
+ Trung tá Edward Partain
+ Trung tá Reginald Woolard
+ Trung tá Robert McLane
+ Trung tá Robert McKnight
+ Trung tá Bob Kingston
o Phó chỉ huy
+ Thiếu tá Pete Hayes
+ Thiếu tá John Hada
* OP37
o Chỉ huy
+ Jack Owens
+ Bob Fay
+ William Hawkins
+ Norman Olson
+ Andrew Merget
o Phó chỉ huy
+ Trung tá Robert Terry
+ Trung tá Mick Trainor
+ Trung tá Wesley Rice
* OP39
o Chỉ huy
+ Trung tá Herbert Weisshart
+ Trung tá Martin Marden
+ Trung tá Robert Bartelt
+ Trung tá Albert Mathwin
+ Trung tá Thomas Bowen
+ Trung tá Louis Bush
* OP35 (tất cả các chỉ huy trưởng của SOG đều tham gia chỉ huy OP35)
o Chỉ huy
+ Đại tá Arthur Simon
+ Đại tá Bill Johnson
+ Đại tá Dan Schungel
+ Đại tá Roger Pezzelles
o Phó chỉ huy
+ Trung tá Raymond Call
+ Trung tá Jonathan Carney
+ Trung tá Larry Trapp


Trại LLĐB Làng Vei nằm giữa Khe Sanh và Lao Bảo chỉ cách biên giới Lào - Việt chừng 2 cây số trên đường số 9 chạy theo hướng Đông - Tây nối liền Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị, vượt Cam Lộ, Cà Lu, xuyên qua biên giới Lào - Việt tới tận Savannakhet bên Lào. Vì Lào nằm trong đất liền nên người Pháp xây cất đường số 9 để thông thương ra vùng bờ biển Việt Nam. Trong cuộc chiến Việt Nam, đường số 9 là trục lộ chiến lược quan trọng được Cộng Quân xử dụng để xâm nhập người và vũ khí từ bên Lào vào các tỉnh cực bắc VNCH. Địa thế vùng Làng Vei thuộc cao nguyên Khe Sanh gần biên giới rất hiểm trở. Mặt Bắc đường số 9 gồm những đồi núi cao khoảng 1000 thước, sườn phủ cỏ tranh như những cây mía lau cao gần đầu người, cạnh lá rất sắc có thể cắt da chảy máu. Cao điểm chế ngự nhất là núi Đồng Trị cao 1015 thước và những ngọn đồi 881, 861 (cao độ tính bằng thược). Dưới thung lũng, rạch Rào Quan quanh co uốn khúc, vào mùa khô chỉ là một ngòi nước nhỏ rất cạn và hẹp, đáy đầy đá rong rêu trơn trợt, nhưng có thể trở thành những thác nước chảy xiết nguy hiểm vào mùa mưa.
Tưởng cũng nên nói Khối Liên Phòng Đông Nam Á (SEATO) mà Nam Việt Nam là một hội viên cũng có kế hoạch trên giấy tờ dự phòng ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng quân bằng cách giàn lực lượng dọc vùng Phi Quân Sự và vùng cán chảo bên Lào. Cứ 2 năm một lần, các hội viên SEATO lại duyệt xét kế hoạch ngăn chặn này trên sa bàn. Năm 1958, cuộc thực tập được đặt tên là Strongback và năm 1960 mang tên Blue Star. Đặc biệt vào năm 1962, khi cường độ xâm nhập của Cộng quân từ Bắc xuống Nam gia tăng rõ rệt với những hoạt động của đoàn 559, SEATO họp tại Phi Luật Tân cho thực tập kế hoạch TULUNGU (tiếng Phi có nghĩa là Hỗ Tương Yểm Trợ), còn được gọi là Kế Hoạch 5. Cuộc thao dượt diễn ra tại đảo Mindoro tượng trưng cho miền Nam Việt Nam với giả thuyết Cộng quân trực tiếp tấn công các tiền đồn với ý đồ xâm lăng Nam Việt Nam. Dĩ nhiên, cuộc thao diễn này rất gần với thực tế nên được Hoa Kỳ quyết tâm hỗ trợ. Tướng Maxwell D. Taylor và cố vấn Walt W. Rostow thuộc Hội Đồng An Ninh Hoa Kỳ được gửi sang Việt Nam để bàn thêm về việc kiểm soát biên giới. Phái bộ Taylor – Rostow đề nghị Việt Nam thành lập một đơn vị mệnh danh là "Lực Lượng Biên Phòng Tây Bắc" (Northwest Frontier Force) gồm 3,300 biệt động quân biên phòng, chia thành 23 đại đội, hoạt động tại 5 tỉnh trong lãnh thổ Việt Nam giáp ranh Lào, với nhiệm vụ tuần phòng và bình định lãnh thổ biên giới không cho địch quân xâm nhập. Riêng vùng Làng Vei, Khe Sanh và Làng Tà Cớn có nhiều người thượng Bru sinh sống nên mọi nỗ lực đều nhắm vào sắc dân này. Mục tiêu là dùng người địa phương đã quen thuộc với thủy thổ, địa thế để dễ dàng hoạt động và cũng ngăn chận địch quân không kiểm soát đuợc dân trong vùng. Đáng tiếc, Lực Lượng Biên Phòng Tây Bắc chỉ là một kế hoạch trên giấy tờ, không được thành hình trên thực tế vì thiếu quân số.
Tới năm 1965, để việc hoạt động song song được hữu hiệu, LLĐB Việt Nam được tổ chức tương tự như hệ thống LLĐB Hoa Kỳ đối nhiệm. Bộ Tư Lệnh LLĐB cũng đóng tại Nha Trang và đảm trách việc huấn luyện tại trung tâm Đồng Ba Thìn. Mỗi Phân Toán "C" (Detachment C) được đặt tại mỗi vùng Chiến Thuật chỉ huy 3 Phân Toán "B" chịu trách nhiệm những Khu Chiến Thuật. Dưới quyền điều động của mỗi Phân Toán "B" có khoảng 10 Phân Toán "A" đóng chung với các Phân Toán "A" của LLĐB Hoa Kỳ tại các trại vùng biên giới để phụ trách việc huấn luyện và duy trì các toán Dân Sự Chiến Đấu (DSCĐ hay CIDG – Civil Irregular Defense Group). Chúng ta có thể coi mỗi Phân Toán C như một Đại Đội, B như một Trung Đội là A là một Tiểu Đội. Như vậy, mỗi trại LLĐB gồm một Phân Toán A có 1 tiểu đội quân nhân LLĐB/VN trong Bộ Chỉ Huy với một sĩ quan cấp Trung Úy hay Đại Úy làm trưởng trại, 1 tiểu đội LLĐB/HK làm cố vấn và nhiều toán DSCĐ do HK trả lương và huấn luyện, không thuộc tổ chức QLVNCH. Thêm vào đó, LLĐB cũng kiểm soát hoạt động của các Toán Delta và 4 Đại Đội thuộc Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Dù thuộc MACV/SOG chuyên hoạt động tại hậu cứ địch. Theo qui ước, tên của các trại LLĐB gồm tên của Phân Toán và một con số chỉ Vùng Chiến Thuật và số thứ tự của trại trong vùng. Thí dụ như trại Khe Sanh được gọi là A-101, có nghĩa là do Phân Toán A đồn trú, tại Vùng 1, trại số 01.
Trại LLĐB mới gần phi trường Khe Sanh được xây cất bằng xi măng cốt sắt rất kiên cố, gồm các công sự phòng thủ bốn góc cũng như chu vi và nhiều doanh trại cho toán DSCĐ, phải mất 6 tháng mới hoàn tất. Chính trại này trở thành xương sống của Căn Cứ TQLC/HK tại Khe Sanh vài năm sau đó. Nhiệm vụ của toán LLĐB và DSCĐ là phát hiện và ngăn chặn sự xâm nhập và tiếp vận của địch quân từ Bắc vào Nam Việt Nam qua ngả Lào. Vùng hoạt động dài khoảng 40 cây số theo hướng Bắc - Nam và rộng chừng 12 cây số về hướng Tây. Mỗi cuộc tuần tiễu lâu chừng 3 tới 15 ngày; mỗi tháng tiếp xúc với Tiểu Đoàn 33 BV Lào tại Ban Huoei Sane một vài lần để thu thập tin tức cũng như phối hợp hoạt động. Các nguồn tiếp liệu cho Tiểu Đoàn 33 BV này đều do phi cơ C-47 chuyên chở tới Khe Sanh rồi đưa qua biên giới. Lực lượng bạn trong vùng còn có Địa Phương Quân và Nghĩa Quân thuộc Chi Khu Hướng Hóa và một Pháo Đội 105 ly (-) VNCH đặt tại Làng Vei.
Như vậy, trong thời gian này tại phi trường Khe Sanh có 2 đơn vị khác hệ thống chỉ huy là LLĐB va TQLC cùng đồn trú trong một căn cứ nên việc phối hợp không được chặt chẽ. Ngoài những khó khăn về mặt chỉ huy, còn có một số hiềm khích vì khác binh chủng. Phía TQLC coi LLĐB như những quân nhân vô kỷ luật, làm việc tùy hứng không đúng chiến lược chiến thuật trong sách vở, trong khi LLĐB coi TQLC như một đơn vị "nặng phần trình diễn", không biết gì về chiến tranh "ngoại lệ". Điển hình, đã có trường hợp TQLC bắn vào toán tuần tiễu LLĐB đang bí mật theo dõi địch; lần khác TQLC lại không bắn vào toán địch quân vì tưởng lầm là DSCĐ của LLĐB. Ngoài ra, đã có TQLC bảo vệ an ninh tại phi trường nên LLĐB muốn di chuyển ra gần biên giới cho dễ theo dõi các hoạt động của địch quân bên Lào. Vì vậy, đôi bên thỏa thuận LLĐB sẽ di chuyển về Lang Vei trước cuối năm 1966. Lúc đó, Tiểu Đoàn 3, TrungĐoàn 2, SĐ 1 Bộ BinhViệt Nam đang đóng tại French Ford để yểm trợ Chi Khu Hướng Hóa. Khi trại LLĐB đã được cải tên thành trại A-101 dời từ Khe Sanh tới Làng Vei, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I rút Tiểu Đoàn này về vùng đồng bằng duyên hải Miền Trung. Như vậy, coi như TĐ TQLC/HK đến Khe Sanh để thay thế TĐ Việt Nam. Sau khi LLĐB dời trại đến Làng Vei, căn cứ Khe Sanh gần phi trường trở thành căn cứ riêng của TQLC/HK. Sau này, vào năm 1968, Hoa Kỳ gia tăng quân số tại căn cứ này lên đến một Trung Đoàn TQLC trong các trận đánh nổi tiếng tại Khe Sanh.
Vào đầu năm 1967, khi Đại Úy LLĐB John J. Duffy cùng Phân Toán A-101 tới đồn trú tại Trại Làng Vei, tình hình tương đối yên tĩnh. Vì vậy, theo lệnh thượng cấp, Duffy mướn một nhóm thiểu số Bru “khai quang”, tháo gỡ hết chất nổ trong một bãi mìn không được ghi rõ trong bản đồ chung quanh trại. Vòng đai mìn này rộng chừng 180 thước. Đại Úy William A. Crenshaw, người thay thế Đại Úy Duffy mới tới Việt Nam chừng 2 tuần lễ và vừa tới Lang Vei được vài ngày khi Cộng Quân tấn công vào đêm 3 tháng 5. Cũng trong ngày đó, một toán tuần tiễu khoảng 30 người từ vùng hoạt động gần khu Phi Quân Sự vừa về tới trại. Trên đường triệt thoái, toán đụng độ nhiều lần với một lực lượng địch quân dường như đang di chuyển tới vị trí tấn công. Trưởng toán tuần tiễu là Trung Sĩ Striptoe báo cáo diễn tiến và yêu cầu Trưởng Trại cho lệnh báo động, nhưng Đại Úy Crenshaw không đồng ý.
Trong khi dó, tình hình cũng như hệ thống truyền tin tại Lang Vei càng thêm rối loạn vì cả trại chỉ còn một máy truyền tin hoạt động, lại còn phải liên lạc với 2 toán đang tuần tiễu bên ngoài, vì vậy, nhân viên truyền tin phải liên tục đổi tần số. May mắn, 2 phi cơ soi sáng nhập vùng vào hồi 3 giờ 40 và 2 trực thăng võ trang đến vào lúc 4 giờ 25. Đến 5 giờ 25, phi cơ Hỏa Long và khu trục cũng đến bao vùng. Lúc này, lực lượng ĐPQ/NQ thuộc Chi Khu Hướng Hóa cũng chuẩn bị lên đường tiếp cứu. Riêng TQLC tại Khe Sanh đã sẵn sàng một Đại Đội tăng viện vào hồi 4 giờ 05 nhưng đơn vị này không được điều động.
Thật ra, đa số các trở ngại gây ra do sự thiếu thống nhất chỉ huy. Các đơn vị hoạt động trong vùng lúc bấy giờ thuộc hệ thống chỉ huy khác nhau nên rất khó phối hợp và điều động nhịp nhàng khi hữu sự. Đại Tá Reeder, chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh và cũng là sĩ quan thâm niên hiện diện thuộc hệ thống TQLC, trong lúc Trại Làng Vei nằm dưới quyền điều động của Toán 5 LLĐB tại Nha Trang; toán MACV/SOG chỉ nhận lệnh của FOB-1 (Forward Operating Base) tại Phú Bài còn Chi Khu Hướng Hóa lại thuộc hệ thống chỉ huy của Tiểu Khu. Nói khác đi, Đại Tá Reeder tuy là cấp chỉ huy cao cấp nhất trong vùng Khe Sanh nhưng ngoài TQLC, ông không có quyền trực tiếp chỉ huy và điều động các đơn vị khác. Điển hình, đã có lần ông bị chĩa súng vào bụng và đuổi ra khỏi hầm chỉ huy của SOG. Dù có muốn ra lệnh cho toán LLĐB rút về Khe Sanh, Đại Tá Reeder cũng không làm được vì mỗi đơn vị thuộc một hệ thống chỉ huy khác nhau. Điều đáng ngạc nhiên là khuyết điểm này vẫn không được tu chỉnh, gây trở ngại không ít trong trận đánh sau này tại Làng Vei vào đầu năm 1968.
Sau khi rút ưu khuyết điểm về trận đánh hồi tháng 5/1967, cấp chỉ huy LLĐB quyết định dời trại Lang Vei về địa điểm mới, nhưng cũng chỉ xa hơn khoảng tám trăm thước về hướng Tay, trên dãy đồi thấp. Lý do các công sự và hàng rào phòng thủ cũ đã bị hư hỏng nặng dự trù cần phải tốn rất nhiều công để sửa chữa. Hơn nữa, kinh nghiệm cho thấy xạ trường tại vị trí cũ bị giới hạn, không mấy thích hợp cho việc phòng thủ.
Nằm giữa các khu vực phòng thủ là phòng tuyến trung ương cũng có hàng rào kẽm gai riêng, ngoài các công sự chiến đấu, còn có hầm chỉ huy toàn trại, được xây cất bằng bê tông cốt sắt rất kiên cố ngầm dưới đất. Trên nóc hầm phòng thủ là một đài quan sát có thể nhìn bao quát quanh trại. Hầm chỉ huy là khu vực tối mật, các DSCĐ không được lai vãng.
Trời sáng, quân và dân Lào tại Ban Huoei Sane bắt đầu di tản tới Làng Vei theo đường số 9. Dọc đường, đoàn người do Trung Tá Soulang chỉ huy được phi cơ Hoa Kỳ bao vùng hướng dẫn và phá hủy một cây cầu để ngăn địch truy kích. Quân BV không cản trở. Khi đến Làng Vei, toán quân Lào bị LLĐB tước khí giới vì nghi ngờ họ đồng lõa với địch khi thấy vũ khí còn sạch, không có dấu vết đã được xử dụng trong trận đánh. Điều này làm vị Tiểu Đoàn Trưởng Lào rất bất mãn sinh ra cãi vã. Sau đó, tổng cộng 519 quân Lào được trả lại vũ khí và đưa về đồn trú tại trại Làng Vei cũ cách đó chừng 1 cây số. Số gia đình binh sĩ và dân Lào còn lại khoảng trên 2,000 người được đưa về Làng Vei. Về tin có chiến xa địch tham chiến, mặc dù trước đây Trung Tá Soulang khi còn ở Ban Huoei Sane đã cung cấp một số tin tức khá chính xác về hoạt động địch, nhưng phía Hoa Kỳ vẫn nghi ngờ vì trước đó phi cơ quan sát cũng như các toán thám sát chưa hề thấy tung tích. Tuy nhiên, ngay sáng hôm sau Ban Houei Sane bị thất thủ, phi cơ quan sát HK phát hiện nhiều dấu xích sắt trên chiến địa nhưng vẫn không nhìn thấy chiến xa. Một phi cơ khác quan sát tại vùng núi Cô Rốc xa hơn về hướng Đông Nam báo cáo nhìn thấy 5 chiến xa địch. Tuy TQLC tại Khe Sanh không tin địch dùng chiến xa, nhưng LLĐB tại Làng Vei tỏ ý lo ngại nên yêu cầu cung cấp khoảng 100 hỏa tiễn chống chiến xa LAW để đề phòng.
Tới đây, để tránh ngộ nhận hầu dễ bề theo dõi các diễn tiến, xin lập lại qui ước về tên các địa điểm trong vùng. Danh từ Trại Làng Vei dùng để chỉ Trại LLĐB Làng Vei Mới, cách Trại Làng Vei cũ đã bị bỏ hoang sau trận đánh vào năm 1967 chừng 800 thước về phía Tây. Quân Lào thuộc TĐ 33 BV do Trung Tá Soulang chỉ huy, sau khi di tản Ban Houei Sane, hiện đóng tại trại Lang Vei cũ. Làng Vei là nơi người Thượng Bru cư ngụ. Tương tự, căn cứ Khe Sanh là nơi TQLC/HK đồn trú, nằm về phia bắc Làng Khe Sanh cũng là Chi Khu Hướng Hóa đã bị quân Bắc Việt chiếm đóng.
Khoảng 10 giờ 40 tối, mìn chiếu sáng lại phát nổ tại khu ĐĐ 104 nên lính lại khai hỏa, nhưng ngưng bắn vài phút sau đó vì địch không phản ứng. Vừa quá nửa đêm rạng ngày 7/2, mìn chiếu sáng tại khu ĐĐ 104 lại phựt cháy, dưới ánh sáng lờ mờ của trái sáng, lính gác tại đài quan sát trên hầm chỉ huy phát hiện 2 tên địch đang qùi trước hai chiến xa đang dùng kìm cắt hàng rào. Lập tức, ĐĐ 104 khai hoả bắn hạ ngay 2 tên đặc công. Hai chiến xa địch lập tức cán qua hàng rào phòng thủ phía Nam thuộc khu ĐĐ 104 để tràn vào trại. Lính gác trên đài quan sát báo cáo với hầm chỉ huy: "Năm chiến xa địch xâm nhập hàng rào phòng thủ với khoảng 200 quân tùng thiết theo sau. Yêu cầu bắn chiếu sáng". Các cấp chỉ huy từ trong hầm chỉ huy ngầm dưới đất phóng lên trên để quan sát và nhìn rõ chiến xa địch đang dùng đại bác 76 ly trực xạ bắn sập các công sự phòng thủ trong khu vực ĐĐ 104.
Dằng dai mãi khoảng nửa giờ sau, pháo binh từ Khe Sanh mới bắt đầu khai hỏa, cùng lúc đó, pháo binh 152 ly của địch từ núi Cô Rốc cũng bằt bầu bắn vào Khe Sanh để khóa súng. Hai loạt đạn TQLC yểm trợ đầu tiên bắn lạc mục tiêu, nhưng sau đó được điều chỉnh rất chính xác, gây thiệt hại nặng cho bộ binh địch tùng thiết. Tại khu vực Ðại Ðội 104, bộ binh địch theo chiến xa tràn vào. Một toán đặc công 4 tên xông qua hàng rào phòng thủ, bị bắn hạ ngay. Trong khi đó, toán tiền đồn báo cáo có 4 chiến xa đang tiến tới từ hướng Tây trên đường số 9, ĐĐ 101 cũng báo cáo thêm 2 chiến xa tiến tới từ hướng Đông. Như vậy, Trại Làng Vei đã bị chiến xa địch tấn công từ 3 mặt: 5 chiến xa đánh mặt Nam từ hướng làng Troài, 4 chiếc ở mặt Tây từ hướng biên giới Lào, 2 chiếc từ mặt Đông hướng Khe Sanh. Trong 5 chiến xa đánh vào mặt Nam, 3 chiếc đã bị bắn hạ, nhưng 2 chiếc còn lại đã xâm nhập khu phòng thủ của ĐĐ 104 và đang dùng đèn quét trên mặt đất để tìm những công sự phòng thủ. Quân trú phòng không còn cách gì chặn chiến xa, vì một khẩu 106 ly phòng thủ mặt Nam hết đạn đã bị phá hủy, khẩu còn lại phòng thủ mặt Bắc hướng đường số 9 lại không hoạt động được vì xạ thủ đi phép. Quân phòng thủ tiếp tục dùng hỏa tiễn LAW để bắn chiến xa nhưng không hiệu quả, đa số không nổ, số còn lại trúng chiến xa nhưng không gây thiệt hại.
Trong khi đó, chiếc chiến xa thứ 2 thấy chiếc đi đầu tuy bị trúng nhiều đạn và hỏa tiễn nhưng vẫn không hề hấn gì nên lấn tới hầu như gần sát hàng rào sau của khu vực ĐĐ 104, chỉ còn cách hầm phòng thủ chừng 100 thước. Chiến xa địch vừa di chuyển, vừa dùng thượng liên càn quét quanh trại. Trung Sĩ Tirach đang ở hầm súng cối 4"2 gần đó vơ vội một trái LAW, dùng thế bắn qùi, tựa lên thành bao cát xung quanh, nhắm vào chiến xa và khai hoả. Nhưng LAW này lại bị thối. Dù quân phòng thủ đã tìm đủ cách, kể cả ném lựu đạn dưới xích sắt và trèo cả lên chiến xa để cố diệt, nhưng vẫn không phá hủy được chúng. Chiến xa địch đã tràn vào gần khu trung ương, quân trú phòng sắp sửa bị tràn ngập.
Tuy chiến xa và bộ binh địch hầu như đã chiếm được trại, nhưng một số quân trú phòng, gồm trại trưởng là Trung Úy Quân, cố vấn trưởng là Đại Úy Willoughby cùng một số DSCĐ khoảng một trung đội vẫn cố thủ trong hầm chỉ huy đã bị chiến xa địch bắn bít cả 2 cửa. Sau khi toán Trung Úy Qúy rời khu vực, một chiến xa địch xông ngay lên nóc hầm chỉ huy, chạy tới chạy lui để cố đè sập, nhưng may mắn, hầm được xây cất kiên cố nên không bị hề hấn. Bộ binh địch bắt đầu bắn và ném lựu đạn bậc thang dẫn vào hầm chỉ huy. Mọi người bị kẹt trong hầm không liên lạc được với bên ngoài, nghĩ rằng những đồng đội bên trên đã bị chết hết nên tắt hết đèn đuốc, nhưng vẫn ghìm súng chờ địch. Tuy nhiên, địch vẫn không giám xâm nhập, chỉ đứng bên ngoài đe dọa.
Khi trời vừa rạng sáng, toán này cùng với chừng 100 quân Lào tiến về Trại Làng Vei để tiếp cứu những người sống sót và chiếm lại trại nếu có thể. Vừa len lỏi qua các lùm cây, họ vừa cố liên lạc với hầm chỉ huy để thông báo ý định này, đồng thời yêu cầu phi cơ oanh kích dọn đường. Khi tới khu vực ĐĐ 101 sát đường số 9, toán tiếp cứụ thấy một nhóm người vẫy tay từ những công sự phòng thủ thuộc khu ĐĐ 104, chỉ cách chừng 100 thước, nhưng khi yêu cầu toán này buông vũ khí và bước ra khỏi công sự nhưng họ vẫn tiếp tục vẫy tay, không làm theo lời yêu cầu. Nghi ngờ bị địch gài bẫy, họ ngừng lại và nằm sát đất vừa đúng lúc bị hai khẩu đại liên địch bắn chéo cánh sẻ, đồng thời bị pháo nặng bằng súng cối. Một số quân Lào bỏ chạy. Bị địch bắn quá gắt, cả toán phải lùi lại về hướng Bắc trên đường số 9 sát khu vực ĐĐ 101, đồng thời thông báo họ phải rút lui vì hỏa lực địch quá mạnh, yêu cầu phi cơ oanh kích mục tiêu có địch, sau đó sẽ lại tiến vào. Lúc đó là 8 giờ sáng.
Lần này, toán lại bị địch quân dùng súng cối pháo kích dữ dội chặn đường, nhưng vẫn xông vào, vừa chạy vừa bắn và ném lựu đạn. Nhưng khi tới gần các công sự địch chỉ còn cách chừng 25 thước, lính Lào bỏ chạy khiến tất cả phải lùi lại. Ashley lại kêu phi cơ oanh kích. Lúc đó toán nhìn thấy Trung Tá Schungel và Trung Úy Wilkins đang được DSCĐ dìu đi, cách khoảng 500 thước, họ chạy lại tiếp cức và tất cả tụ tập tại địa điểm cách Làng Vei cũ chừng 500 thước về phía Tây, ngay sát QL 9. Khi phi cơ oanh tạc xong, toán lại tấn công lần thứ ba, nhưng lần này một số lính Lào bỏ cuộc nên lực lượng chỉ còn lại chừng phân nửa, một số ở lại bắn súng cối 60 yểm trợ. Khi tới gần trại, địch từ những công sự chiếm được bắn ra mãnh liệt, chúng còn dùng cả lựu đạn khiến cả toán phải ngừng lại không tiến được nữa. Lần vào trại thứ ba này cũng bị thất bại.

Vị sĩ quan có cấp bậc cao nhất tại trại Lang Vei là Trung Tá Schungel, cũng là cấp chỉ huy trực tiếp của Trại Trưởng Willoughby. Khi chiến xa đầu tiên của địch bị phát hiện trong lúc đang phá hàng rào phòng thủ, Trung Tá Schungel lập tức tổ chức một toán diệt chiến xa bằng hỏa tiễn cầm tay LAW gồm một số sĩ quan Mỹ Việt. Phải công nhận suốt đêm, trong lúc trận đánh tiếp diễn ác liệt, Trung Tá Schungel và toán diệt chiến xa này đã chiến đấu rất dũng cảm, nhiều lần chạy bộ đuổi theo hoặc cận chiến với chiến xa địch, có lúc họ còn liệng lựu đạn dưới xích chiến xa để hy vọng chận đứng được chúng. Nhưng đáng tiếc, đa số hỏa tiễn LAW bị “thối” không khai hỏa, bắn trật hoặc trúng chiến xa nhưng không gây thiệt hại. Tổng kết, với gần 100 hỏa tiễn LAW cũng chỉ diệt được một vài chiến xa. Khi không còn LAW, toán diệt chiến xa tính rút vào hầm chỉ huy nhưng Trung Tá Schungel cho rằng ở bên ngoài có nhiều hy vọng “sống sót” hơn. Từ đó cho đến khi được cứu thoát vào sáng sớm, Trung Tá Schungel kể như chỉ có thể tự vệ, lo cho sự an toàn của bản thân, không còn đóng góp nào đáng kể trong việc phòng thủ trại.
Vị sĩ quan HK thứ ba có mặt trong trại có thể trợ giúp đắc lực trong việc phòng thủ là Trung Úy Longgrear chỉ huy toán Mike Force tăng phái gồm chừng 200 người Thượng Hrê. Thoạt đầu, toán Mike Force được dùng để thám sát và làm tiền đồn bên ngoài, sau đó, một số lớn được kéo vào trong trại để tăng cường phòng thủ. Trong lúc xảy ra trận đánh, Trung Úy Longgear nhập vào toán diệt chiến xa do Trung Tá Schungel thành lập. Với 200 tay súng, toán Mike Force là một lực lượng phòng thủ rất đáng kể có thể thay đổi cục diện trận đánh nếu được điều động đúng lúc và đúng mức. Riêng cá nhân Trung Úy Longgrear chiến đấu can dảm dù bị thương nhiều lần. Anh cố thủ trong hầm chỉ huy cho tới trời sáng. Khi chạy thoát thân, anh bị thương què chân lần nữa, tưởng đã nằm chờ chết, nhưng anh thuật lại vì thấy được Chúa Trời nên thêm sức mạnh gượng dậy chạy tiếp, may gặp được Trung Úy Qúy liều chết lái xe đón ngoài trại. Vì trong cơn nguye biến đã “được Đức Chúa Trời” cứu giúp toàn mạng nên sau này khi trở về Hoa Kỳ, anh Longgrear trở thành một Thầy Giảng ngoan đạo.